Nho Giáo và văn minh phương Đông cùng âm mưu Hán hóa (Phần 2) - Dân Làm Báo

Nho Giáo và văn minh phương Đông cùng âm mưu Hán hóa (Phần 2)

Xem lại: Phần 1

C. Mặc học với sự phê bình về Nho học

Mặc học do Mặc Tử sáng lập, ông là người phê bình học thuyết của Khổng Tử một cách gay gắt, từ quan niệm về đạo đức đến vấn đề xã hội. Đối với Nho học, Mặc Tử chống quan niệm về “Nhân”, phê phán về  “Lễ”, chê bai “Nhạc”,  phê bình thuyết “Thiên mệnh”, bài bác thuyết “Chính Danh”.

Ngược lại Mạnh Tử cũng chê bai Mặc Tử thậm tệ: “Nay thuyết của Dương Chu cùng Mặc Địch lan tràn thiên hạ... Họ Dương chủ trương vị kỷ, ấy là không có chúa; họ Mặc chủ trương kiêm ái, đó là không có cha; kẻ không chúa không cha, là loài cầm thú vậy”. Rồi Mạnh Tử cũng đã nói: “Đạo của Dương, Mặc mà không dứt, thì đạo của Khổng Tử không sáng tỏ được”.

Đối với vấn đề mưu sinh, ai cũng phải có ăn để mà sống, Mặc Tử và các môn sinh của ông chủ trương phải ra công sức lao động, để tự tạo lấy nhu cầu và phương tiện cho đời sống, cho mình và cho người, sống cần kiệm; nếu không muốn nói là khổ hạnh để mưu cầu hạnh phúc cho mình và tha nhân, thể hiện tinh thần vị tha (vì tha nhân). Trong khi đó các nhà Nho theo Khổng học thì không lao động để có thể tự mưu sinh, nhưng sống bằng bổng lộc được cung cấp bởi những kẻ lao động (nông, công, thương), gián tiếp qua các vua chúa (từ thuế). Họ dùng sản phẩm và phương tiện của kẻ lao động để cung phụng mình, nhiều khi còn đi đến sự bóc lột. Đây là sự xung khắc ngấm ngầm giữa hai học phái.

Về vấn đề xã hội, đã có nhiều học giả từ đông sang tây đã so sánh học thuyết “kiêm ái”, quan niệm “bình đẳng”, chống đối những sự gây hấn và chiến tranh, hy sinh cho người của Mặc Tử giống như tinh thần “bác ái”, “yêu người như mình” của Ki-tô giáo.

Tiểu sử:

Mặc Tử tên là Mặc Địch, người nước Lỗ (có thuyết nói ông là người nước Tống). Ông sinh cuối thời Xuân Thu, sau khi Khổng Tử mất khoảng 10 năm  (~490 - ~397 TCN)  và lớn lên thời Chiến Quốc. Mặc Địch xuất thân bần hàn, rất có năng khiếu về kỹ thuật, kiếm sống bằng nghề thủ công. Tương truyền ông là nhà phát minh ra cánh diều (kite). Lúc thiếu thời ông theo Nho học, nhưng không đồng ý với Nho học, ông chuyển qua tự học bằng cách đọc sách để nhận định và tìm hiểu về tư tưởng, học hỏi thêm kiến thức. Sự học của ông qua sử sách là sự chọn lọc những điều tinh túy, để có thể phân biệt được đâu là điều đúng, đâu là điều sai. Ước mong của ông là “làm lợi cho người và cho đời”. Với hoài bão này, ông đã cố truyền bá tư tưởng của mình. Học trò của ông cũng là những người lao động. Mặc Tử là người cổ võ hoà bình và chống đối chiến tranh một cách kịch liệt, ông đã đi qua các nước như Tống, Tề, Ngụy, Việt, Sở truyền bá tư tưởng “phi công” để củng cố hòa bình. Thời Chiến Quốc, chiến tranh càng dồn dập hơn thời Xuân Thu. Nước Tề chuẩn bị mang quân đánh chiếm nước Lỗ, Mặc Tử sang Tề và đã thuyết phục được vua Tề bỏ ý định này.

Một việc nổi tiếng về Mặc Tử được ghi lại qua sử sách là việc ông đã ngăn cản được một cuộc chiến giữa Sở và Tống.  Sở chuẩn bị đánh Tống, vì nghĩ là có Công Thâu Ban (Gongshu Ban 公輸班, cũng gọi là Lỗ Ban) đã chế được “thang mây” (vân thê) - một chiến cụ để tấn công thành. Mặc Tử từ nước Lỗ đi liên tục mười ngày đêm tới Ảnh Đô là kinh đô của Sở gặp Công Thâu Ban (CTB); để khuyên ông này bỏ ý định chế thang mây. CTB nói là ông đã nhận lời của Sở vương. Mặc Tử nhờ CTB dẫn ông tới gặp vua Sở là Sở Huệ vương để trình bày hơn thiệt. Mặc Tử nói với vua Sở với đại ý là Sở đất rộng, giàu có sao lại cố đánh chiếm Tống là nước nhỏ và nghèo, vua Sở vẫn không đổi ý, hơn nữa CTB cho là với thang mây thì nhất định sẽ hạ được thành dễ dàng. Mặc Tử nói với CTB: “Ông có cách đánh thành thì tôi có cách giữ thành”. Sau đó Mặc Tử cởi thắt lưng quây trên sàn giả làm thành, cùng với các vật dụng nhỏ bằng gỗ giả làm chiến cụ thủ thành. CTB công thành, Mặc Tử thủ thành. Sau 9 phương thức công thành của CTB, Mặc Tử đều có cách phòng thủ. CTB nói là còn một cách nữa để công thành nhưng không nói ra. Mặc Tử trả lời là cũng còn cách thủ thành nhưng không nói. Sở vương thấy lạ nên hỏi hai người đang nói gì? Mặc Tử trả lời là ý của CTB định giết mình thì Tống không còn cách thủ thành, rồi ông nói là trước khi sang Sở ông đã sai Cầm Hoạt Ly cùng với 300 đệ tử khác; mang các chiến cụ sang Tống để đề phòng khi quân Sở tấn công. Sở Huệ vương chứng kiến bản lĩnh phòng thủ của Mặc Tử và thấy là khó có thể thắng Tống nếu cuộc chiến xảy ra, nên bỏ ý định đánh Tống.

Mặc Tử đã ngăn chặn được cuộc chiến tranh Tống - Sở , hàng trăm ngàn sinh linh cũng như tài sản đã không bị tiêu tan. Chủ trương “phi công” đã được Mặc Tử mang chính mạng sống mình ra để thi hành.   

Chủ thuyết của Mặc Tử

Mặc Tử là người sáng lập ra Mặc học. Ông đưa ra học thuyết “kiêm ái và phi công” (兼 愛 非 攻, Kiêm : bao gồm, ái: yêu, phi: không, công: đánh, tấn công), không chiến tranh, chủ trương yêu thương hoà bình, mọi người đều bình đẳng, sống cần kiệm và phải làm việc để được no đủ. Ông chủ trương chủ nghĩa “thực nghiệm” để tạo phúc lợi cho người và cho đời.

Những tài liệu còn lại đến ngày nay cho hậu thế biết là đã có 71 thiên trong 15 quyển sách. Số phận của những thiên bị thất thoát có lẽ cũng do việc đốt sách của Tần Thủy Hoàng và kinh điển của Mặc học gần như bị đi vào quên lãng kể từ thời Tiền Hán, kho Nho giáo đi vào vị thế độc tôn. Ngày nay còn 53 thiên được lưu truyền.  

Mặc Tử tin vào thần linh, “ông rất tin Trời, tin quỷ thần (có lẽ cũng do ảnh hưởng của (nước) Tống), với ông Trời là đấng chúa tể, quản lãnh mọi việc trên thế gian, ai thuận ý Trời thì được thưởng, trái ý Trời thì bị phạt, mà muốn thuận ý Trời thì phải yêu khắp mọi người vì Trời muốn cho loài người được sung sướng”.

Mặc Tử chủ trương sống theo ý Trời, vì “ngã dĩ thử tri kỳ kiêm ái thiên hạ chi nhân dã” (vì biết là Trời thương yêu mọi người trong thiên hạ) và “khiết vi tư thịnh tửu lễ, dĩ kính tế tự Thượng Đế” (sửa soạn bánh rượu tinh khiết để hiến tế Thượng Đế) vì “Thả thiên chi ái bách tính dã” (Trời thương yêu mọi người). Ông cho là các kẻ sĩ  hay quân tử là là những người ước mong làm điều nghĩa hợp với lẽ Trời (“Kim thiên hạ chi sĩ quân tử dục vi nghĩa giả, tắc bất khả bất thuận thiên chi ý hỹ”).

Những câu được ghi lại từ môn sinh của Mặc Tử, từ 53 thiên trong sách của Mặc học, thấy có 25 lần đề cập đến chữ “Thượng Đế” (“上帝”), đặc biệt là trong thiên 26, 27, 28: “Thiên Chí” thượng, trung, hạ . Qua những điều đã viết trong ba thiên này, có lẽ ông tin có một đấng “Thượng Đế”, và Đấng này là nguồn của yêu thương, quyền năng và sự hiểu biết, mặc dù đây là cách diễn tả có vẻ khó hiểu của những người  trong “Mặc gia” 24 thế kỷ trước!

Về phương diện luận lý về quan niệm đạo đức cũng như chính trị, Mặc Tử đề ra phương pháp “tam biểu”: thứ nhất xét “gốc” của sự việc, sau đó xem cái “nguyên” có hợp với quyền lợi của mọi người, nếu thấy đúng thì “ứng dụng” vào việc cai trị.
   
Từ sự lý luận này, Mặc Tử chủ trương làm gì cũng phải nghĩ đến điều lợi lâu dài cho mọi người. Người dân phải cùng nhau nhận biết điều gì tốt cho họ, rồi ứng dụng, không cần phải theo những truyền thống cũ (ngược với quan điểm “hưng Chu” của Khổng học)

Phê bình Nho học

Sách của Mặc học dành riêng hai thiên 38 là “Phi Nho thượng” (thất lạc) và thiên 39 “Phi Nho hạ” để đả kích Nho học, dù các thiên khác cũng có nhiều sự bài bác.

Quan niệm về “Nhân”

Một cách đại cương thì chữ “nhân” của Khổng Tử là thương người. Khổng học chủ trương “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (đừng làm những gì mà mình không muốn điều người khác làm cho mình), tuy nhiên sự thương yêu này có tính cách giới hạn và giai cấp: “Khổng Tử khích lệ mối quan tâm cá biệt cho gia đình, thân tộc của mỗi người, gây nhiều thương tổn cho cảm giác phổ quát của loài người về thiện chí. Mặc Tử tuyên bố rằng lòng trung thành ưu tiên cho gia tộc - thân nhân: thân yêu người thân - là cội rễ của cái ác. Ông tìm cách thay thế nó bằng quan điểm xã hội hòa hợp dựa trên “kiêm ái: yêu hết thảy mọi người”, một học thuyết làm nảy sinh cảm giác thiết thực về phúc lợi của toàn thể xã hội” .

Quan điểm về “nhân” của Mặc học là “Ái nhân nhược ái kỳ thân” (yêu người như yêu mình), không kỳ thị, không phân biệt giai cấp hay phe nhóm. Ông còn đi xa hơn nữa “Vi bỉ giả , do vi kỷ dã” (vì người cũng như vì mình).

Quan niệm về “Lễ”

Quan niệm về “lễ” của Mặc Tử khác với Khổng Tử. Khổng Tử trọng “lễ”, ông rất chú trọng đến nghi thức trong các cuộc tế lễ. Tâm lý con người nói chung thì hầu hết ai cũng cho là mình quan trọng. Những nghi thức để chứng tỏ uy quyền của “thiên tử” đã được các Nho gia tận dụng. Điển hình là Thúc Tôn Thông và đám đệ tử. Họ đã làm Hán Cao Tổ thỏa mãn và Nho gia được trọng dụng. Trong khi đó Mặc học lại chống đối. Kẻ theo tâm lý chung của người đời đã thắng, “kẻ lội ngược dòng” sẽ bị đào thải, dù có thể đây là chân lý, nhưng những tư tưởng này đã  không được sự hỗ trợ của những kẻ có quyền hành, vì đụng chạm đến quyền lợi của họ. Mặc học đã suy tàn từ thời Tiền Hán.

Mặc Tử cho là Khổng Tử rườm rà về “lễ” chỉ gây nên sự tốn kém: “chư gia phí bất gia dân lợi giả , thánh vương phất vi”  (điều gì làm tốn kém cho dân, các bậc thánh vương không làm).

Về nghi lễ, Mặc Tử cho là Trời chẳng cần những lễ vật, mà Trời nhận sự hiến tế là tình thương yêu đồng loại “phù hề duyệt thuyết dĩ bất dục nhân chi tương ái tương lợi dã? Cố viết: “ái nhân lợi nhân giả, thiên tất phúc chi , ác nhân tặc nhân giả , thiên tất hoạ chi
   
Vấn đề tang lễ, Mặc Tử đồng ý tang lễ là điều nên làm “táng tuy hữu lễ, nhi ai vi bản yên” (an táng phải có lễ để khóc thương người qúa cố) nhưng giản dị. Ông cho là các Nho gia lười làm lụng chỉ lợi dụng tang lễ để kiếm ăn, trục lợi, nên ông đã mạt sát vấn đề này một cách thậm tệ: “Thả phu phồn sức lễ  nhạc dĩ dâm nhân, cửu táng ngụy ai dĩ mạn thân, lập mệnh hoãn bần nhi cảo hạo cư, bội bản khí sự nhi an đãi ngạo, tham vu ẩm thực, noạ vu tác vụ, hãm vu cơ hàn, nguy vu đống nỗi, vô dĩ vi chi..  phú nhân hữu táng, nãi đại thuyết, hỷ viết: “thử y thực chi đoan dã”.”

Quan niệm về “Nhạc”

Mặc học có nguyên ba thiên 32, 33, 34 là “Phi nhạc thượng, trung, hạ”, thiên 33, 34 đã thất lạc. Trong thiên 32, Mặc Tử nêu một số lý do là không nên có “nhạc”:

Các thánh vương không dùng nhạc, vì: “Nhạc” không làm lợi cho người dù “nhạc” làm con người thoải mái, nếu vậy dùng “nhạc” là không đúng: “Tuy thân tri kỳ an dã, khẩu tri kỳ cam dã, mục tri kỳ mỹ dã, nhĩ tri kỳ nhạc dã, nhiên thượng khảo chi bất trung thánh vương chi sự; hạ độ chi, bất trung vạn dân chi lợi. Thị cố tử Mặc Tử viết: “vi nhạc , phi dã!”.

Rồi “nhạc” làm tốn kém vì phải chế nhạc cụ, người dân lo về “nhạc” mà không sản xuất nhu yếu phẩm, ăn uống vui chơi quá độ v.v...

“Nhạc” theo quan niệm của Nho gia là cần phải có “nhạc” để dùng cho “lễ”. Mặc Tử theo chủ thuyết “thiết thực”, những điều gì không cần thiết cho con người mà cố gắng thi hành là sai trái. Có thể là khởi đầu thời Chiến Quốc, chiến tranh xảy ra liên miên, người chết nhiều, không đủ nhân sự để sản xuất các nhu yếu phẩm, đói kém thường xuyên, nên vấn đề này đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Mặc học?

Vì thế Mặc Tử cố loại bỏ những điều gì không có tính cách thực nghiệm, “Tuân Tử chê ông là bị cái “dụng” che lấp mà không biết cái “văn vẻ”, không biết đến mỹ thuật. Nhưng theo Lưu Hướng trong sách Thuyết uyển, thì ông có nói với Cầm Tử đại ý rằng trong năm đói kém, lúa gạo quý hơn châu báu; “phải được thường ăn cho no rồi mới cầu cái ngon, phải được thường mặc ấm rồi mới cầu cái đẹp, phải được thường ở yên rồi mới cầu cái vui, như vậy mới lâu bền được, tóm lại là phải trong cái chất trước hết rồi mới đến cái văn, việc của thánh nhân là thế. Nếu lời đó đúng thì Mặc Tử không phải là chê hẳn mỹ thuật, mà chỉ cho nó là phụ thôi.

Quan niệm về “Thiên mệnh”

Khổng Tử cho rằng “Thiên mệnh” là số phận đã định đoạt sẵn và hướng dẫn hành động của từng cá nhân.

Mặc Tử không tán đồng quan niệm này, ông cho là nếu tin vào thiên mệnh thì còn nỗ lực để cải thiện cuộc sống làm gì? Niềm tin này chỉ làm con người lười biếng không chịu tìm kiếm những điều tốt hơn!

Mặc học có 3 thiên 35, 36, 37 là “Phi mệnh thượng, trung, hạ” để bài bác quan niệm về “mệnh” của Khổng học, những thiên này vẫn còn được lưu truyền.

Khổng học quan niệm là con người có số mạng

Luận Ngữ “Nghiêu viết đệ nhị thập chi tam”: “Tử viết:  bất tri mệnh, vô dĩ vi quân Tử dã” (Không biết mệnh không phải là kẻ quân tử).

Luận Ngữ  “Nhan Uyên đệ thập nhị”:  "tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên" (Sống chết do mệnh, giàu sang do mệnh).

Luận ngữ “Hiến vấn đệ thập tứ - chi tam bát”: "Đạo chi tương hành dã dự, mệnh dã, đạo chi tương phế dự dã, mệnh dã,…”  (Cũng là hành đạo, nhưng đạo của ông (Tử Lộ) nếu như đem ra thi hành thì chính là trong mệnh đã định, đạo nếu như thất bại, thì trong mệnh đã vốn có sẵn. "

Một cách đại cương là Khổng học rất tin tưởng vào số mệnh.

Mặc Tử phản đối quan niệm về “mệnh”

Ông cho rằng quan niệm này không tốt lành gì, vì không thể biện minh là có “mệnh” hay không? “Cố đương chấp hữu mệnh giả chi ngôn , bất khả bất minh biện

Vì thế Mặc Tử đưa ra cách để khảo sát:
“ Cố ngôn tất hữu tam biểu. Hà vị tam biểu? Tử  Mặc Tử  ngôn viết: “hữu bản chi giả , hữu nguyên chi giả , hữu dụng chi giả . Ư hà bản chi?
Đây là cách lý luận “tam biểu” (đã nêu lên trong phần trước) là tìm hiểu về cái “gốc”, rồi cái “nguyên” sau đó là “ứng dụng”

Sau khi áp dụng nguyên tắc “tam biểu” để biện luận, Mặc Tử cho là nếu con người tin vào “mệnh” thì sẽ sinh ra lười biếng, không đủ ăn đủ mặc, rồi tới cảnh nước mất nhà tan cũng đều cho đó là số mạng của họ.

Mặc Tử đi đến kết luận : “Thị cố tử Mặc Tử ngôn viết: “kim thiên hạ chi sĩ quân tử, trung thực dục thiên hạ chi phú nhi ác kỳ bần , dục thiên hạ chi trị nhi ác kỳ loạn , chấp hữu mệnh giả chi ngôn, bất khả bất phi, thử thiên hạ chi đại hại dã.” (Mặc Tử nói: nay người quân tử trong thiên hạ muốn mọi người giàu có, không muốn họ nghèo, muốn thiên hạ như thế (tin vào “mệnh”) thì sẽ sinh loạn, quan niệm về “mệnh” nên loại bỏ, vì quan niệm này là tai họa cho thiên hạ).

Tại sao Mặc Tử cho rằng sự tin vào số mệnh là tai họa của thiên hạ? Vì ông cho rằng nó là nguyên nhân gây ra sự nghèo túng:

Quần lại tín chi, tắc đãi ư phận chức; thứ nhân tín chi, tắc đãi ư tòng sự. Lại bất trị tắc loạn, nông sự hoãn tắc bần, bần thả loạn chính chi bản, nhi Nho giả dĩ Đạo giáo, thị tặc thiên hạ chi nhân giả dã”. (Quan lại tin vào điều này (“mệnh”) sẽ không thi hành nhiệm vụ, thứ dân tin vào điều này sẽ bỏ bê công việc. Quan lại không lo trị an sẽ sinh loạn, nhà nông biếng trễ sẽ sinh nghèo, chính cái nghèo sinh ra loạn lạc, các Nho gia dạy điều này như Đạo học thì loạn là phải rồi!).

Tóm lại Mặc học bài bác Nho học cực kỳ gay gắt, đã vạch ra từng điểm để phê bình trong 53 thiên của sách Mặc học. Hai quan niệm Nho học và Mặc học không thể đứng chung! Lịch sử đã nói lên điều này. Nho học có quan niệm hợp với quyền lợi, sự tự tôn của những kẻ có quyền hành - các vua chúa, nên Nho học đã được họ cổ võ triệt để. Mặc học có quan niệm ngược với đặc quyền của họ, nên bị trôi vào quên lãng gần như hoàn toàn thời Hán Vũ Đế, có chăng chỉ là những lưu trữ trong các sách được cất dấu.

D. Nhận xét về Khổng Tử qua “Khổng Tử Thế Gia” (Sử Ký)

Sử gia thời Tiền Hán là Tư Mã Thiên (145 TCN - 86 TCN) đã dành riêng một thiên khá dài so với các thiên khác trong sách Sử Ký để viết về Khổng Tử.

Đoạn cuối cùng của “Khổng Tử Thế Gia” (bản dịch của Phan Ngọc) viết như sau:

 “Thái Sử Công (Thái Sử Công là danh xưng về chức vụ của Tư Mã Thiên) nói: Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử tới vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí Thánh vậy.  

Kết luận là như thế, tuy nhiên phần nội dung ông đã viết về Khổng Tử như thế nào? Hậu thế xin tìm hiểu:

1- Lời của tể tướng Án Anh nước Tề:

 “Bọn nhà nho chỉ là kẻ ba hoa mà không thể noi gương theo họ được. Họ  kiêu ngạo, tự cho mình là phải nên không thể để cho họ làm tôi. Họ chú trọng việc chôn cất, thương xót, làm mất gia sản  để chôn cất cho được đầy đủ, không thể cho điều đó thành phong tục. Họ đi du thuyết hết nơi này đến nơi khác  để kiếm ăn , không thể cho họ trị nước được.”  

Dù đây là lời của Án Anh (cùng thời với Khổng Tử), nhưng được ghi lại trong “Khổng Tử Thế Gia”, hậu thế sẽ nghĩ sao về Khổng Tử với sự phê bình của người nổi tiếng về sự đứng đắn và  sống cùng thời.

2-Sự phán đoán của Khổng Tử:

Khổng Tử nổi tiếng là người hiểu biết khi còn sống, tuy nhiên sự phán đoán của ông như sau:

Khi nước Ngô đánh nước Việt, phá hủy Cối Kê, có lấy được  một cái xương, chở đầy một xe. Vua Ngô sai sứ giả hỏi Trọng Ni: Tại sao xương lại lớn như vậy?

Trọng Ni nói: Vua Hạ Vũ triệu tập những người làm chủ núi sông ở núi Cối Kê. Phòng Phong đến sau bị vua Vũ giết phơi thây, mỗi cái xương của ông ta chở đầy một xe. Xương này là của Phòng Phong cho nên lớn như vậy.”  

Luận Ngữ  “Vi chính đệ nhị - chi thập thất”: “...Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã”  . (Biết thì nhận là biết, không biết thì nhận là không biết, đó là biết vậy).

Mỗi cái xương người đầy một xe!? Có lẽ tình cờ khai quật được xương khủng long mới lớn đến như vậy! Khổng Tử không biết về vấn đề này và nói bừa đây là xương ông Phòng Phong. Qua câu nói  của Khổng Tử từ đoạn văn trên , chúng ta thấy có những vấn đề nên bàn luận:

Câu hỏi được đặt ra:  

- Khổng Tử không biết gì nguốn gốc, xuất xứ của hiện vật tìm thấy và  nói bừa?

- Chứng tỏ sự hiểu biết của mình, dù biết rằng mình hoàn toàn không biết gì về hiện vật =>  Kiêu căng?

- Không biết mà nói biết là  lừa dối?

-  “Nói một đàng, làm một nẻo!”? Không biết nói là biết (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã)?

3- Khi Khổng Tử làm tướng quốc tại Lỗ:

“Năm thứ 14 đời Định công, Khổng Tử 56 tuổi, rời chức tư khấu,  quyền giữ chức tướng quốc . Thấy  Khổng Tử có vẻ mừng rỡ,   một người học trò nói: Tôi nghe thầy nói: "Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng".

Khổng Tử nói: Câu nói ấy cũng có đấy. Nhưng chẳng có câu: "Vui vì ở địa vị cao quý mà khiêm tốn đối với mọi người" hay sao?”  

Câu hỏi được đặt ra:  

- Ở địa vị “cao quý?”, coi thường người khác, cao ngạo và không khiêm tốn với địa vị của mình? 
- Kiêu căng và kỳ thị về giai cấp?
- Khổng tử mê công danh? Vui mừng khi được trọng dụng? Học trò ông đã đặt câu hỏi về việc này!
- Khổng Tử  ngụy biện  cho sự kiêu căng  và kỳ thị giai cấp?
- Khổng Tử lừa dối mình và lừa dối học trò?

4- Khổng Tử từ quan

 “Vua Tề bèn sai chọn tám mươi người con gái đẹp ở trong nước Tề... Vua Lỗ bỏ chính sự... Cuối cùng, Quý Hoàn Tử nhận nữ nhạc của Tề, ba ngày không nghe việc chính sự. Khi làm lễ tế giao cũng không đưa thịt tế đến cho các quan đại phu. Khổng Tử bèn ra đi.”.  

Khổng Tử từ quan vì không được vua cho thịt tế?
Hay vì việc vua Lỗ và Quý Hoàn Tử   “không nghe việc chính sự” ?

Đã có ý kiến khác nhau về vấn đề này. Nho gia thì cho là Khổng Tử bỏ đi vì vua Lỗ mê nữ sắc, không màng đế chính sự nên ông từ quan và bỏ đi. Người phê phán Khổng Tử thì cho rằng ông bỏ đi vì không được chia thịt nên xấu hổ, vì miếng thịt mà từ quan thì đây là cách hành xử không ra gì.

Khi làm tướng quốc, Khổng Tử đã giúp nước Lỗ cũng như dân chúng có được cảnh an cư lạc nghiệp:

 “Sau khi tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu bán lợn không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi vì người ta đều xem họ như người trong nhà.”  

Nếu vua Lỗ và Quý Hoàn Tử bỏ bê chính sự thì dân Lỗ càng cần ông hơn nữa. Khổng Tử lại bỏ đi! Hai lý do đã nêu đều khó được chấp nhận!

Câu hỏi được đặt ra:  

- Có phải Khổng Tử  vị kỷ, chỉ nghĩ về mình mà không nghĩ đến người dân?
- Đây có phải là hành động của “thánh nhân”?

5- Khổng Tử  là “văn” và “đức”?

 “Khổng Tử nói: Sau khi Văn vương chết đi cái "văn" không phải ở ta hay sao? Nếu trời muốn làm mất cái "văn" ấy đi thì ta là người sinh sau đã không được biết đến nó. Vì trời chưa muốn mất cái "văn" ấy thì người đất Khuông làm gì đựoc ta?
Khổng Tử nói: Trời sinh đức ở ta, Hoàn Khôi làm gì được ta?”

“Văn” cũng ở Khổng Tử, “đức” cũng ở Khổng Tử. “Văn” mà mất thì đời sau không có văn?

Câu hỏi được đặt ra:  

Khổng tử có kiêu ngạo quá hay không?

6-Khổng Tử bội thề!

 “Khổng Tử bèn rời khỏi đất Trần, đi qua đất Bồ. Vừa lúc ấy họ Công Thúc cầm đầu người đất Bồ nổi loạn. Người đất Bồ giữ Khổng Tử lại. Trong số học trò của Khổng Tử có Công Lương Nhụ đem năm cỗ xe của mình đi theo Khổng Tử. Ông ta là người đứng tuổi, tài giỏi, có sức mạnh. Ông ta nói: Xưa kia con theo thầy gặp nạn ở đất Khuông, nay gặp nạn ở đây, đó là mệnh! Con lại cùng thầy gặp nạn, con quyết chiến đấu mà chết.

Ông chiến đấu rất hăng. Người đất Bồ sợ hãi, bảo Khổng Tử: Nếu ông không đến nước Vệ thì chúng tôi sẽ cho ông đi.

Khổng tử cùng họ ăn thề. Họ cho Khổng Tử đi ra phía cửa đông. Khổng Tử liền đến đất Vệ.

Tử Cống hỏi: Có thể phụ lời thề được sao?   

Khổng Tử nói: Đó là vì ta  bắt buộc phải thề cho nên quỷ thần không nghe”  

Phần đầu trong thiên này cũng đã viết: “Khổng Tử dạy bốn điều: văn học, đức hạnh, trung thành,  tín nghĩa”.

Sách Luận Ngữ, “Vi chính đệ nhị (2-21): “Tử viết: Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã,...” (Khổng tử nói: Kẻ mà không đáng tin, không biết có làm được điều gì tốt...?)
Qua đoạn văn này chúng ta thấy Khổng Tử mới vừa thề thốt xong đã nuốt lời thề. Đến độ học trò của ông là Tử  Cống phải hỏi: “Có thể phụ lời thề được sao?”. Rồi để biện luận cho hành động của mình, Khổng Tử nói là bị bắt buộc nên làm thế!
Câu hỏi được đặt ra:  

- Khổng Tử là kẻ bất tín? Tệ hơn nữa là bội lời thề?
- Lừa dối?
- Ngụy biện?
- Khổng Tử là một kẻ không đáng tin: “Nói một đàng làm một nẻo?”

7- Mặc Tử chê bai Khổng Tử

Sách Mặc học cũng viết về hành động này của Khổng Tử với sự chê bai thậm tệ , so sánh với những gì ông làm khi ông được Lỗ Ai Công đón tiếp:

Mặc Tử, thiên 39 “Phi Nho hạ đệ tam thập cửu” (tạm phiên dịch):

Khổng Tử bị khốn cùng ở biên giới hai nước Thái - Trần, sau 10 ngày chỉ ăn cháo rau không có gạo, Tử Lộ dâng cho ông thịt heo, Khổng Tử không hỏi thịt từ đâu mà có để ăn, Tử Lộ đổi áo lấy rượu, Khổng Tử cũng không hỏi ở đâu có rượu mà uống. Khi (Lỗ) Ai Công đón Khổng Tử thì chiếu trải không ngay ngắn ông không ngồi, thức ăn cắt không đúng khuôn phép thì không ăn. Tử Lộ đến hỏi: “Sao thày lại làm ngược với những gì thầy đã làm ở (biên giới) nước Trần - Thái?” Khổng Tử trả lời: “Này, ta nói cho anh biết, trước đó làm thế vì phải sống, nay làm là vì nghĩa”. Thật là nói càn thế nào cũng được, đúng là kẻ lật lọng, khi đầy đủ thì cứ thả cửa mà xuyên tạc, còn trò gian trá thấp hèn nào lớn bằng!”  
------
Sau khi đọc qua nội dung của “Khổng Tử Thế Gia”, dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên chúng ta thấy ông đã diễn tả cuộc sống của Khổng Tử một cách rất linh động. Khổng Tử có tài, đặc biệt là về giáo dục, ông đã có công đưa vị trí của sự giáo dục lên cao, khi làm quan cũng đã thành công. Trong nội dung; Tư Mã Thiên đã nêu ra những cách hành xử của Khổng Tử, nhưng không đưa ra những phán đoán.  Có lẽ  ông muốn để cho hậu thế xét đoán? Tuy nhiên có một điều là qua những diễn tả của ông, Khổng Tử có phải là một người có nhân cách đáng phục hay không? Chưa dám nói đến “bậc thánh” hay cao hơn nữa là “bậc chí thánh”.  

Câu hỏi đặt ra là gần như có sự  mâu thuẫn trong phần kết luận với câu nói của Thái Sử Công. Để trả lời cho câu hỏi này, người viết chỉ có thể  phỏng đoán là Tư Mã Thiên muốn “qua mặt” Hán Vũ Đế, để lưu lại cho hậu thế biết Khổng Tử như thế nào! Hán Vũ Đế vì tình cảm riêng nên đã xử cung hình Tư Mã Thiên (trích trong “Lời giới thiệu”cuả sách Sử Ký của dịch giả Nhữ Thành):

“Năm 99 trước Công Nguyên, Vũ Đế sai Lý Quảng Lợi cầm ba vạn quân đánh Hung Nô. Bấy giờ Lý Lăng, cháu của danh tướng Lý Quảng, cầm năm ngàn quân vào biên giới Hung Nô. Bị tám vạn quân Hung Nô bao vây. Lăng chỉ huy cuộc chiến đấu suốt mười ngày liền, giết hơn vạn quân địch. Nhưng cuối cùng vì cách xa biên giới, bị chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, mệt mỏi không còn sức chiến đấu, Lăng phải đầu hàng. Vũ Đế nổi giận muốn giết cả nhà Lăng, quần thần đều hùa theo ý nhà vua.”  

Tư Mã Thiên biện hộ cho Lý Lăng, “không ngờ Vũ Đế càng giận, cho ông cố ý đề cao Lăng để chê Lý Quảng Lợi nhút nhát không lập nên công lao gì, mà Quảng Lợi lại là anh của Lý phu nhân rất được nhà vua yêu quý. Vũ Đế bèn sai bắt giam Tư Mã Thiên giao cho Đỗ Chu xét xử... cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà vua”, và bị thiến! Đã mấy lần uất ức quá, ông nghĩ đến việc tự vẫn. 
Cái ấn tượng nhục nhã, cô độc theo dõi ông cho đến khi chết. Mỗi khi nghĩ đến cái nhục bị hình phạt, mồ hôi vẫn cứ đầm lưng ướt áo! Nhưng ông không vì thế mà chán nản. Trái lại, ông càng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Ông thấy rõ hình phạt đó là một thử thách đối với những “người trác việc phi thường”. Ông càng thấy cần phải viết “cho hả điều căm giận”. Và chính cái hình phạt nhục nhã ấy đã làm cho ông hiểu rõ cái mặt trái của xã hội phong kiến và dũng cảm đứng về phía nhân dân.”  

Thúc Tôn Thông đã lợi dụng “lễ” của Nho học để đưa các Nho gia vào hệ thống cai trị. Đổng Trọng Thư đã dâng kiến nghị để Hán Vũ Đế nâng Nho học lên hàng “Quốc giáo”. Tư Mã Thiên là kẻ ngay thẳng đã trở thành nạn nhân của nền phong kiến với tư tưởng thống trị của Nho giáo. Vì thế người viết  phỏng đoán  là ông đã nêu lên vấn đề một cách ngấm ngầm, nâng Khổng Tử lên hàng “chí thánh” một cách “vu vơ” để chiều lòng và “qua mặt” Hán Vũ Đế, hầu mong những gì ông viết được được phổ biến cho hậu thế biết để tránh hay thay đổi. 

E- Ảnh hưởng của Nho học tới văn hoá và văn minh phương Đông

Ghi chú: Mặc dù dùng chữ  “phương Đông”; tuy nhiên chỉ xin nhấn mạnh đến hai nước Trung Hoa và Việt Nam.

Học thuyết nào cũng có điều hay, điều dở, tuy nhiên dù sao đi nữa một học thuyết có thể được phát triển hay không còn tùy thuộc vào thời đại, dân trí, hoàn cảnh và nền văn minh, nhưng yếu tố quan trọng nhất là thể chế chính trị của xã hội đó. Chủ thuyết Cộng Sản là một thí dụ điển hình, nổi lên ở Âu châu, lan truyền sang Á châu rồi bắt đầu tàn lụi Âu châu, trong khi Á châu vẫn còn vướng víu.

Thời Xuân Thu rồi Chiến Quốc là thời đại loạn trong xã hội vùng trung nguyên. Một xã hội ổn định là điều ước mơ của người dân. Đã có những người nêu lên tư tưởng phản ảnh với tình trạng này, kẻ thì chủ trương rút lui, né tránh, người thì cố tìm đường hướng để giải quyết và mang lại trật tự. Nhiều trường phái tư tưởng bộc phát, Nho học của Khồng Tử khởi đầu cho hiện tượng “Bách gia chư tử” ra đời. Tuy nhiên Nho học cũng không ngoại lệ, muốn truyền bá thì phải được thể chế chính trị làm hậu thuẫn. Nho học đã ở vị trí độc tôn khi Trung Hoa có một thể chế chính trị vững vàng và trải dài đến cận đại. Tìm hiểu về ảnh hưởng của Nho học, chúng ta có thể thấy được nền văn hóa đó như thế nào. Từ đây, ta có thể suy ra được nền văn minh của xã hội đó. Tuy nhiên, văn minh góp phần thay đổi văn hóa và có tính cách hỗ tương lẫn nhau. Nho học ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa Trung Hoa và Việt Nam?

Người viết không phải là người tìm hiểu hay nghiên cứu về Nho học, chỉ tham khảo những nhận định từ lời bình phẩm của những nhà Nho thời cận đại và các tác giả đương thời, để có một cái nhìn tổng quát liên quan đến Nho Giáo và văn minh phương đông, hầu có thể đưa ra một kết luận hợp lý cho đề tài này.

Sự phê bình Nho học của cựu Nho gia Phan Khôi

Trong sách “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta” của học giả Phan Khôi (PK), một người từ “Cửa Khổng sân Trình” đã thấy “Cái học nhà Nho đã hỏng rồi. Mười người đi học, chín người thôi” đưa ra những nhận định như sau:

“Cái đạo của ngài chẳng những không hợp thời, không dụng được trong thời nay, mà lại, những chỗ không hợp thời ấy, những chỗ không dụng được ấy, nếu còn vướng víu trong óc chúng ta, là kẻ cần phải kiếm cách “sanh hoạt mới” ở đời này, thì cũng còn là không lợi cho ta vậy.” (PK)

“Tam cương” (Quân thần, phụ tử, phu phụ): được đặt ra trong thời Hán do chủ trương của Đổng Trọng Thư, vì “nhà nho cũng nhờ quân quyền mà được mạnh. Nghề thế, chén tạc phải có chén thù, nhà nho mới càng bợ đỡ quân quyền cho mạnh thêm lên... tam cang là cái thuyết của Hán nho nịnh nhà vua mà đặt ra vậy.” (PK). Tại miền nam Việt Nam; “Tam cương” còn đi xa hơn nữa với câu truyền tụng là “Quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”, tuy nhiên cụ Phan Khôi đã giải thích như sau: “Nhiều người đem hỏi tôi, tôi phải lấy làm lạ. Hoặc giả có, mà tôi lâu nay ít hay ôn nhuần lại sách cũ rồi quên đi chăng, chớ theo như cái trí nhớ trong đầu tôi, thì câu nầy chẳng có trong sách nào hết, chẳng ông thánh nào nói hết, mà chừng như là lời của Lê Tử Trình nói trong tuồng Sơn hậu hồi thứ ba !”.(PK)

Khổng học theo như cụ Phan Khôi đã “không hợp thời”, Tống Nho thì càng xa hơn nữa với chữ “Tam Cương”: “Tống nho về luân lý là trái nhau với Khổng Tử, họ không thèm ké né chút nào hết, cứ trợn mắt phùng mang mà đè nén kẻ bề dưới (tôi, con, vợ) và ra mặt bợ đỡ kẻ bề trên (vua, cha, chồng).

Ông cũng cho rằng  cho rằng nền Nho học ảnh hưởng tới Việt Nam là Tống nho và “các học thuyết của họ dễ làm cho người ta trở nên hiền lành yếu đuối, lợi cho sự cai trị, nên từ đó về sau, Tàu cũng vậy, ta cũng vậy, các nhà vua đều tôn chuộng Tống nho và bắt thần dân mình phải học theo sách vở của họ đã làm ra hoặc đã chú thích”.

Từ khi giành lại được độc lập, Phật giáo ảnh hưởng đến Việt Nam đến hết đời Trần. Sau đó Việt Nam bị dưới ách Minh thuộc 20 năm (1407-1427). Nhà Minh lúc này vẫn bị ảnh hưởng bởi Tống Nho, dù thời gian bị trị ngắn ngủi nhưng tàn bạo, Tống Nho đã gây ảnh hưởng nặng đến dân Việt qua hệ thống cai trị. Ông Lê Lợi và những người cùng chí hướng đã đánh đuổi quân Minh dựng nên nhà Hậu Lê, triều đại này “bắt kẻ học trong nước phải học theo sách họ Khổng mà Tống nho đã dọn lại và chú thích... thế lực của Tống nho trở lại mạnh hơn Khổng Tử; và người An Nam mình, tiếng rằng theo đạo Khổng, chớ kỳ thật là theo đạo Tống nho vậy!” (PK). Mà Tống Nho là cái học từ chương, học chỉ để làm quan, không tăng trưởng về kiến thức, không phát triển óc sáng tạo, “ở trong vòng học vấn nô lệ thì khó mà kiếm ra được cái óc tự chủ !” (PK). PK đã viết lại câu của Tây Hồ Phan Chu Trinh: “Cái học thuyết của Tống nho là học thuyết vong quốc” .

Nho học đã gây ảnh hưởng ra sao đến nền văn hóa phương Đông?

Có phải Nho giáo đã tạo ra nền:

1. Văn hóa lừa dối

Khổng Tử là “giáo chủ” Nho giáo đã dạy chữ “tín”, nhưng ông là người đã làm ngược lại điều ông dạy: phản bội lời thề ở đất Bồ và những điều đã nêu trong phần trước. Từ  những hành vi này; kẻ hậu thế này thấy ông là kẻ bất tín đã thế còn ngụy biện cho hành vi của mình, và “nói một đàng làm một nẻo”,  đây là một sự lừa dối rõ ràng của “vạn thế sư biểu” về gian trá.

Khổng Tử đã có công làm cho nền giáo dục phát triển, nhưng sự phát triển này ẩn tàng một sự dối trá, một nền giáo dục gian trá đưa đến một nền văn hóa lừa đảo. Kết quả là một đám nhà Nho nịnh hót để kiếm địa vị và bổng lộc ra đời, được nở rộ từ thời Tiền Hán và kéo dài đến hơn hai ngàn năm sau. Chữ “lễ” đã được tận dụng để vẽ ra những chuyện không có thật để tâng bốc, chữ “nhân, nghĩa” làm bình phong cho những âm mưu lừa dối hiểm độc, để mang lợi cho cá nhân hay dòng họ.

Những mưu mô lừa đảo được tôn vinh, càng lừa hay càng được thán phục. Trần Thắng với trò lừa viết chữ “Trần Thắng vương” vào lụa, nhét vào bụng cá vừa mới bắt được; khi mổ bụng thấy “điềm trời”, để hô hào dân chúng nổi dậy chống Tần, rồi trò lừa “người đá một mắt” thời Nguyên đã là một yếu tố dựng nên nhà Minh. Cũng trò lừa đảo tương tự, Nguyễn Trãi với mật hay mỡ viết vào là câu “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” để kiến ăn thả xuống sông suối. Dùng sự lừa đảo cho một mục đích cao thượng là điều tốt, nhưng từ từ sự lừa đảo trở thành quán tính và nằm trong tâm tưởng của con người như một mục đích để noi theo. Khổng Minh trong “Tam Quốc Chí diễn nghĩa” với những trò lừa đi lừa lại; đã được nâng lên thành biểu tượng về sự trí tuệ của Trung Hoa. Ngày nay những trò gian trá đưa đến sự lợi lộc là “đỉnh cao trí tuệ”.

Nhân loại ở đâu cũng có sự gian trá, tuy nhiên lừa dối trở thành một kế sách cho hành động để đạt mục đích thì Trung Hoa và Việt Nam ngày nay đã “vượt chỉ tiêu” so với các dân tộc khác. Sự gian dối đi vào máu và óc, đã tạo nên một nền “văn hóa đểu”. Văn hoá lừa dối này ảnh hưởng đến văn minh, văn minh đã tạo nên những sản phẩm “đểu” cho đời sống trên rất nhiều bình diện. Chúng ta có thể kiểm chứng rất dễ dàng qua mạng lưới toàn cầu ngày nay; qua những việc tẩy chay các sản phẩm giả và độc hại từ Trung Quốc.  

Chữ “tín” trong Nho học đã được “vạn thế sư biểu” viết thành chữ “trá”  ngay từ đầu! Gian trá đã là một yếu tố truyền kiếp của văn hóa phương Đông???

2. Văn hóa của “đàn cừu”

Khởi đầu, nền giáo dục của Nho giáo đã tạo nên giai cấp kẽ sĩ, những kẻ làm quan, xưng danh là “quân tử”, vâng lệnh vua chúa để cai trị, đám dân đen bị kẻ sĩ đặt là “tiểu nhân” (những người không có địa vị trong xã hội). Dần dà chữ “tiểu nhân”  được dùng để chỉ người hèn hạ, “quân tử” chỉ những kẻ có đức hạnh cao thượng.

Người làm quan -  Kẻ sĩ  - phải là những người thông hiểu về Nho học, tuy nhiên học “thuật” này có chủ yếu ngầm là “tôn quân”. Kẻ sĩ dùng Nho học để biện hộ cho cái gọi là “chính nghĩa” của nền quân chủ chuyên chế, cũng như cái gọi là “đạo đức” của kẻ sĩ là phải “trung quân” một cách tuyệt đối, “Thần sự quân dĩ trung” (Bề tôi phải phục vụ vua hết lòng - Sách Luận Ngữ, “Bát dật đệ tam (3-19) ). Họ đã tự chế chiếc gông “tam cương” với ổ khoá “quân thần” khó mở để đeo vào cổ, ngoại trừ nổi loạn.  Kẻ sĩ đã tự tạo cho mình một kiếp nô lệ cho vua chúa, làm quan thì phải tập quì cho hai đầu gối chai cứng, cái lưng phải mềm dễ cong, để có được bổng lộc. Vua bảo sao cũng phải tuân hành, họ đã trở thành những con cừu ngoan, và khi nhà vua muốn làm thịt con nàothì con đó phải chịu. Đã như  thế  mà Nho gia còn tự vinh danh “sĩ, nông, công, thương”, nâng địa vị “sĩ” lên hàng đầu. Học để thi đậu rồi được làm quan là mục đích của sĩ tử.

Cựu Nho gia Phan Khôi có nhận xét như sau: “Khổng giáo đã thiệt tình lấy sự làm quan làm một cái chủ nghĩa. Mà hình như chính đức Khổng Tử cũng đã đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa đó,... cả đời đức Khổng Tử chỉ châu du các nước chư hầu để kiếm một cái địa vị làm quan.”.  Khổng Tử đã phải chạy đi chạy lại “long tóc gáy” để kiếm một “chỗ để quì” với chiêu bài “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, không tìm được chỗ nào, đành về lại nước Lỗ dạy học viết sách nuôi thân và gia đình, một cách đi ẩn. Thầy như thế thì môn sinh học theo, đời này kế tiếp đời kia. Một nền giáo dục vị kỷ, sự học không phải để làm cho dân giàu nước mạnh, mà chỉ để kiếm bổng lộc, để “vinh thân phì gia”, để kiếm một chỗ đứng của con cừu trong bầy cừu.  Rồi khi đạt được địa vị, “bề trên” bảo sao nghe vậy thì làm gì có được đầu óc sáng tạo! Cả hai xã hội Trung Hoa và Việt Nam qua các thời đại không thấy có được một tổ chức nào gọi là “viện nghiên cứu”; có khả năng làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn, có chăng chỉ một vài cá nhân đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên những sáng kiến hay những tư tưởng mới này được áp dụng hay không lại là chuyện khác, tùy “kẻ chăn cừu”. Sáng kiến, đường hướng mới để  làm tốt hơn không có; thì văn minh sẽ đứng tại chỗ hay tệ hơn nữa là lụn bại! Đến khi phải đối diện với một nền văn hóa xa xôi kèm theo cái văn minh trấn áp của những “đàn sói” mới biết sáng mắt ra thì đã muộn: mất nước!

3. Văn hóa kỳ thị

Nho học dạy môn sinh trở  thành một kẻ trung quân tuyệt đối, đó là đối với “bề trên”, các bậc vua chúa, những kẻ ban bổng lộc. Nho gia tự biến họ thành những kẻ thừa hành ngoan ngoãn , tệ hơn nữa là trở thành những công cụ để vua chúa xử dụng, muốn thì dùng, không thì vất bỏ. Nhưng đối với “kẻ dưới” - đám thường dân trong xã hội, hay “tiểu nhân” theo nghĩa nguyên thủy – thì kẻ sĩ lại ra vẻ ta đây “quân tử”, coi thường người dân, khinh thường nữ giới, người không cùng Hán tộc thì gọi là Man, Di, Địch và tìm trăm phương ngàn kế để tiêu diệt, với chủ trương “Hưng Chu diệt di”!

a-Kỳ thị đẳng cấp.

Về đẳng cấp xã hội, Khổng Tử  đã nói nhiều về “quân tử” và “tiểu nhân” trong sách Luận Ngữ, mạt sát “tiểu nhân” không tiếc lời, đề cao “quân tử” không mỏi miệng.

Ông Trần Trọng Kim (TTK) trong bài viết “QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" THEO KHỔNG GIÁO” đã nêu lên những trích dẫn, điển hình như:

Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc di sử giã” (Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ khiến). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).

Nếu “tiểu nhân” học đạo chỉ để dễ sai khiến thì học làm gì, học để trở thành người đạo đức, biết phân biệt phải trái. Sự thật qua lịch sử đã chứng minh ngược lại, “quân tử” hay kẻ sĩ cũng là Nho gia; học “đạo” để làm công cụ cho vua chúa sai khiến. Để cho hợp với lịch sử, câu này nên đổi chữ “ái nhân” thành “tôn quân”.

Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo”. (Quân tử chuộng nghĩa, quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn. Tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì làm đứa ăn trộm). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).

Qua lịch sử chúng ta thấy những kẻ thường dân, hay “tiểu nhân” như Lưu Bang bên Tàu, Lê Lợi bên Việt Nam đâu có là kẻ ăn trộm, họ có dũng và nổi dậy để diệt bạo tàn,  thành công làm hoàng đế  và “quân tử” phải quỳ lạy, trong khi quân tử như Trương Lương, Nguyễn Trãi, có dũng nhưng nào dám tự mình “làm loạn”!  

Quân tử thượng giao bất siểm, hạ giao bất độc”. (Quân tử giao với người trên thì không nịnh, giao với người dưới thì không nhàm). (Dịch: Hệ Từ Hạ).

Xảo ngôn! Gối chai vì quì, lưng cong bởi cúi mà nói không nịnh. Thái độ của một nịnh thần mắng chửi và khinh thường những người ra công sức phục dịch; để vua chúa và “quân tử” có cuộc sống hơn họ. Kỳ thị một cách gian dối?    

Chỉ qua ba thí dụ nêu trên, theo quan niệm thời nay; chúng ta thấy Nho giáo đã hoàn toàn đi ngược với sự bình đẳng của con người, kỳ thị đẳng cấp một cách lầm lẫn và chủ quan. Một điều tệ hại hơn nữa, so sánh những hành vi của Nho gia qua các thời đại; thì hành động đã không đi đôi với việc làm, hoàn toàn ngược với câu “tri hành hợp nhất” (hiểu biết và việc làm phải đi đôi với nhau). Một kẻ ăn cướp, giết người cũng có thể nói những câu đạo đức để làm bung xung che dấu những hành động tàn ác! Lịch sử năm ngàn năm của Trung Hoa đã chứng minh điều này.

Trong Lễ Ký, Khúc Lễ thượng: “Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu” (Lễ nghi không được dùng đối với đám thứ dân, hình phạt không áp dụng cho bậc đại phu). Đây là sự kỳ thị đẳng cấp thô bỉ, cổ võ sự bất lương của đám quan lại mà giai cấp này là “quân tử” hay kẻ sĩ có đặc quyền, đã thế lại khinh thường người dân quá đáng.    

Luận Ngữ  “Vi chính đệ nhị 2-3”: “Tử viết: đạo chi dĩ chính , tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ” (kẻ cầm quyền phải dùng hình pháp để trị cho dân sợ mà không phạm luật, chứ người dân tự họ không biết xấu hổ).

Luận Ngữ  “Thái bá đệ bát 8-9”: “Tử viết: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi”, (Người dân có thể sai khiến, chứ không thể dạy cho họ hiểu).

Khinh thường người dân quá sức, con người tự họ ai cũng biết hổ thẹn khi biết việc làm của mình không đúng, kể cả với lương tâm.  Ai cũng có khả năng học hỏi. “Quân tử” là người biết “đạo” phải biết xấu hổ khi nói lên tính cách kỳ thị này, chính họ đã quên câu của Mạnh Tử: “Dân vi quí,...”.

Một xã hội mà chỉ có một bọn kẻ sĩ nịnh hót, học hỏi từ những điều được gọi là đạo đức từ sự tưởng tượng và gian dối, vua chúa mà hầu hết là những hôn quân   bảo sao kẻ sĩ nghe vậy, chỉ biết vị kỷ, vơ về cho mình và dòng họ, không cố tìm ra những phương thức để cải thiện cuộc sống của mọi người; thì nền văn minh của xã hội này đi tới đâu, lịch sử đã nói lên điều này!   

Trong bài viết “QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" THEO KHỔNG GIÁO”, không thấy cụ TTK đề cập đến một câu trong Luận Ngữ  mà câu này đã mạt sát cả “tiểu nhân” lẫn nữ giới một cách rất gọn: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã! Cận chi tắc bất tôn , viễn chi tắc oán” (Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy, gần họ thì khinh nhờn, xa họ thì oán thán) (Luận Ngữ, Dương hoá đệ thập thất, chi nhị ngũ, 17-25).

Nho giáo đã tạo nên quan niệm kỳ thị và khinh thường người dân, “quân tiểu nhân” (theo nghĩa nguyên thủy) như thế nào, người viết cảm thấy đã tạm đủ qua sự  trình bày sơ lược, mặc dù còn nhiều chỗ trong Nho học qua tứ thư và ngũ kinh chưa được biết đến! Qua câu viết trong Luận ngữ vừa nêu, Nho giáo đã xếp hạng nữ giới ngang hàng với “tiểu nhân (theo nghĩa sau này l à kẻ hèn mọn). Điều này đã ảnh hưởng đến văn hóa, gây ra không biết bao nhiêu sự đau khổ cho phụ nữ trong xã hội phương Đông qua nhiều ngàn năm. Nền văn hóa này đã biến người phụ nữ thành nô lệ thực sự. Văn hóa được cấu tạo bởi Nho giáo đã ảnh hưởng đến người phụ nữ ra sao, người viết sẽ lạm bàn trong phần kế tiếp.

b-Kỳ thị phụ nữ

Khi nói về phụ nữ trong xã hội ảnh hưởng bởi Nho giáo, chúng ta thấy có những câu như  “tam tòng, tứ đức”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,  “trinh tiết”, v.v... áp đặt lên người nữ. Xã hội Việt Nam trước khi bị ảnh hưởng bởi Nho giáo, người phụ nữ Việt đã không bị những ràng buộc và kỳ thị, hơn nữa họ còn giữ vai trò chủ động, bằng chứng là sự khởi nghĩa của hai bà Trưng, bà Triệu. Ngôn ngữ của Việt Nam cũng nói đã nói lên điều này: những gì “chính” thì được gọi là “cái” (nghĩa là mẹ) như sông “cái”, đường “cái” quan, ngón tay “cái”, cái cò,  cái vạc cái nông”, v.v..., hay chữ “con” (chỉ phái nữ, khác với phái nam là “thằng”) như “con” sông, “con” cọp, v.v... Tuy nhiên từ khi Nho học thâm nhập vào nền giáo dục, vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội đã bị suy giảm một cách đáng kể.

“Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy...

Trung Hoa từ lúc khởi đầu là văn hóa du mục, có lẽ vì thể lực nam nữ khác nhau nên hình thái phụ hệ thịnh hành và biến thành một tập tục.  Khi Trung Hoa bước vào xã hội phong kiến, kể từ thời nhà Tây Chu, vị trí của phái nữ đã trở nên thấp hèn hơn so với phái nam một cách rõ ràng. Cuối thời Xuân Thu (Đông Chu), Khổng giáo được phổ biến, vai trò của phái nữ trong xã hội được qui định để dìm vai trò của họ xuống bùn. Khởi đầu là Khổng Tử với quan niệm khinh thường phụ nữ: “Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy...”. Chẳng lẽ Khổng Tử quên mẹ mình, người đã nuôi dạy ông cũng là đàn bà hay sao? Dạy người khác phải có hiếu với cha mẹ, còn mình thì “vơ đũa cả nắm”, vì khinh thường phái nữ nên ông chửi toáng lên, không cần biết là trong số đó có cả mẹ mình! Đây là hành động của “Thánh nhân”?

“Tam tòng, tứ đức”

Rồi  “Tam tòng” là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”  (ở nhà thì theo cha, xuất giá thì theo chồng, chồng chết theo con). Câu “Tam tòng” từ sách Lễ Ký, thiên Tang Phục, Tử hạ truyện, nguyên văn: “vị giá tòng phụ , ký giá tòng phu, phu tử tòng tử”, chủ trương “nam tôn nữ ti” (trọng nam khinh nữ). “Tam tòng” là cái cùm để cùm chân nữ giới không cho ra ngoài xã hội, chỉ ở trong nhà để phục vụ cha, chồng rồi con, người phụ nữ không có quyền hạn gì trong gia đình. Thật là một sự ích kỷ được bày vẽ ra bởi Khổng Tử và đám môn sinh của ông, với mục đích biến người phụ nữ trong gia đình thành nô tì!

Sau “Tam tòng” lại có “Tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh) để giáo huấn người phụ nữ. Chữ “Tứ đức” từ  sách Lễ Ký, thiên Quan, cửu tần, nguyên văn: “phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công”. Đưa ra chữ “tòng” thì phải có những hành động đi theo để cung phụng “tam tòng”, “tứ đức” là nguyên tắc thành văn cho hành động của sự nô lệ?

Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô

Mạnh Tử nói về chữ “hiếu”: trong sách Mạnh Tử, Ly Lâu thượng có câu “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” (có ba điều bất hiếu, không có nỗi dõi là điều lớn nhất).  Xã hội phụ hệ, thì con trai mang họ cha, có con trai thì hy vọng có kẻ nối dòng. Vì vậy phải có con trai mới được coi là có hiếu, còn nếu sinh con gái thì coi như “vất đi”, coi như không sanh, hơn nữa không có con trai thì coi như đại bất hiếu. Thật là một quan niệm vô nhân đạo và kỳ thị một cách vô nhân tính! Có lẽ từ câu này nên các Nho gia Việt Nam mới bịa ra câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (sinh một trai là “có con”, sinh mười gái cũng coi như “không con ”) lại càng có vẻ kỳ thị hơn nữa. Con gái còn bị coi là “nữ nhi ngoại tộc” (con gái là họ ngoài, họ người ta), câu này có lẽ đã được thu gọn thành câu chữ Hán từ câu tục ngữ “con gái là con người ta, con dâu mới thiệt mẹ cha mua về”, coi phụ nữ như món đồ có thể mua bán!  Vì con gái bị coi như ngoại tộc; nên bên Trung Hoa nhiều gia đình đã không truyền lại những bí mật nghề nghiệp cho con gái!

“Kẻ thù riêng của phụ nữ”

Lưu Bang, một kẻ một kẻ thô lỗ, “người khách nào đội mũi nhà Nho đến Bái Công liền giật mũ đái vào trong” (Sử ký)nhưng có chí lớn nên đã dựng nên nhà Hán. Đám Nho gia này muốn kiếm địa vị, đứng đầu là Thúc Tôn Thông đã bày ra trò lễ nghi để tôn vinh Hán Cao Tổ Lưu Bang; nên được ông này trọng dụng cùng với cả trăm tên đệ tử. Sau đó qua sự “đạo diễn” của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ  Đế Lưu Triệt thấy có lợi cho nền quân chủ chuyên chế; nên đặt Nho học làm quốc giáo.  Để nịnh hót hơn nữa, đám Nho gia lại dùng “lễ” bày thêm trò mới, để thỏa mãn tính tham lam độc ác về tính dục của phái nam là hoàng đế với trò “tam cung lục viện”.

Trong bài viết “Hoàng đế với phụ nữ” của cựu Nho gia Phan Khôi, năm 1930:

“… Nghĩ cho kỹ mà xem, đế vương thật như là kẻ thù riêng của phụ nữ;... Nói về chế độ quân chủ nước Tàu. Theo Kinh Lễ, thiên Hôn nghĩa, thiên tử thì đặt ba bà phu nhân, chín bà tân, 27 người thế phụ, 81 người ngự thê. Mà lễ ấy, nói rằng thánh nhơn đặt ra đó. Không biết ông thánh nào mà có cái óc kỳ quái như vậy? Một người đàn ông mà cho đến 120 người đàn bà lận...

Cái số chánh là 120, còn ngoài ra, những cung nữ, thị tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, gấp mươi lăm, hai mươi lần số ấy nữa... Những con gái dân gian đã bị chọn vào đó thì phí cả một đời người, chỉ có chết là hết, chớ không có ngày ra được….Nội một sự vì hầu hạ một người mà chứa vào trong cung đến năm bảy ngàn người đàn bà, đã đủ giày vò phụ nữ đến đâu rồi;...”.

Cụ Phan Khôi hỏi là “ông thánh nào” dù rằng cụ đã biết rõ đây là “Thánh Khổng”, ông viết “đế vương thật như là kẻ thù riêng của phụ nữ” , chẳng lẽ cựu Nho gia lại viết rằng “Thánh Khổng” và Nho giáo là kẻ thù chung của phụ nữ! dù rằng có lẽ ý ông muốn nói như thế?

Độc giả nào nếu có dịp đến Tử Cấm thành tại Bắc Kinh, hay tham khảo cũng đều biết là cung cấm này có gần một chục ngàn phòng ốc. Khi tối đến, trong số cả hàng ngàn người ở đây, chỉ có một người phái nam duy nhất là ông hoàng đế, ngoài ra chỉ có phái nữ và một số hoạn quan; nam không ra nam nữ không ra nữ. Ngoài một số cực nhỏ được hoàng đế yêu thích, còn lại là những “nữ tù nhân” bị “án” chung thân không có ngày ra!

Cấm quả phụ tái giá

Người phụ nữ đến “cửa Khổng” thì bị mang cùm, qua thời Tống đến “sân Trình” lại bị đeo thêm gông, “sân Trình” chỉ Trình Tử  (Trình Di hay Trình Y Xuyên , 1033 -  ~1107).

Trình Tử đề ra quan niệm về tiết hạnh của phụ nữ là cấm quả phụ tái giá. Trong bài viết “Tống Nho với phụ nữ” của cựu Nho gia Phan Khôi đăng báo năm 1931:

Lại ông Trình Hy cấm đàn bà góa lấy chồng, nói rằng: “Chết đói là sự nhỏ, thất tiết là sự lớn” (nhiên ngã tử sự cự tiểu, thất tiết lễ sự cự đại).
Cái nầy Trình tử không thèm hỏi đến kẻ goá bụa đó ở vào cái địa vị nào, gặp cái cảnh ngộ ra sao, mà nhứt luật không cho cải giá, thì thật là bất cận nhân tình quá thể. Người lập ra cái luật ấy chẳng có gì khác hơn là muốn thỏa cái lòng ích kỷ của đàn ông, cố ý mà bóc lột hết thảy quyền lợi đàn bà”.

Cấm góa phụ tái giá đã là một sự đàn áp khủng khiếp, đến cả người phụ nữ bị chồng bỏ (hay chồng “để”) cũng không được lập lại cuộc sống mới thì thật là tàn ác!

Theo lẽ công bình, nếu đàn bà bị chồng để, không được cải giá thì đàn ông cũng đừng nên để vợ. Vậy mà Trình tử lại cho phép đàn ông để vợ. Trong sách Tánh lý đại toàn chép rằng: “Có kẻ hỏi: Vợ, có thể để không? Trình tử đáp rằng: Vợ chẳng hiền, thì để đi có hại gì đâu?...

Đã thế lại còn có câu “trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” thì công bằng ở đâu? Nho giáo đã đạp người phụ nữ xuống bùn đen, luật lệ này chẳng khác gì câu nói “tao là luật, luật là tao”.

Quan niệm kỳ thị phái nữ của Nho giáo đã ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa phương Đông qua các thời đại?

-Đã hạ phẩm giá của người phụ nữ xuống quá thấp
-Không cho phụ nữ đi học
-Không cho phụ nữ thi cử
-Không thể làm quan
-Nửa tài sản trí tuệ bị mai một
-Biến phụ nữ thành món đồ sở hữu của phái nam, đặc biệt là các vua chúa
-Hủ tục bó chân ghê rợn tại Trung Hoa là hệ quả việc biến phụ nữ thành món đồ chơi .
-Hủ tục tảo hôn tàn ác biến phụ nữ thành “con ở” không công!
-Ngày nay với chế độ “một” con tại Trung Quốc, các bé sơ sinh nữ bị giết một cách vô nhân đạo, sau đó với cảnh trai thừa gái thiếu làm xã hội bất ổn.

Một nền văn hóa mà nửa tài sản trí tuệ bị lãng phí, thì phát triển về văn minh sẽ bị chậm lại! Một xã hội đặt trên quan niệm bất bình đẳng và kỳ thị thì  “Ở đâu có bất công , ở đó có chống đối”, xã hội rối loạn thì văn minh khó phát triển.

c-Kỳ thị chủng tộc

Cuối thời Xuân Thu, quyền lực của nhà Chu (Đông Chu) chỉ còn tập trung tại Lạc Ấp (gần Lạc Dương ngày nay), vua Chu gần như chỉ là bù nhìn, cần quân đội của các chư hầu bảo vệ khi có sự tấn công hay cướp bóc từ các bộ tộc khác. Thời gian này có khoảng 14 nước tương đối lớn, trong số đó qua các diễn biến theo năm tháng có “thất hùng”  là 7 nước mạnh nhất và luôn tìm cách thôn tính lẫn nhau. Các chư hầu tranh nhau làm bá chủ, chiến tranh xảy ra thường xuyên, vùng trung nguyên (lưu vực sông Hoàng Hà) hỗn loạn.

Khổng Tử có hoài bão khôi phục lại quyền lực như thời nhà Tây Chu, ông muốn làm như Chu Công (hay Chu Công Đán, tên thật là Cơ Đán), định lại quy chế “phân phong chư hầu”:  “Nay Khổng Khâu theo phép tắc của Tam vương, làm sáng cả cơ nghiệp của Chu công, Thiện Công.” (KTTG,  Sử Ký). Khổng Tử  “nghiện” lễ nghi nhà Tây Chu: “Nhà Chu noi gương hai triều đại trước, lễ nghi nhà Chu rực rỡ làm sao! Ta theo nhà Chu.” (KTTG,  Sử Ký). Ông rất thán phục và thường nằm mơ thấy Chu Công, khi gần chết ông than: “Ta suy nhược lắm rồi! Đã từ lâu ta chẳng mơ thấy Chu Công” (Luận Ngữ , Thuật nhi đệ thất, chi ngũ: “Tử viết: “thậm hỹ ngô suy dã! Cửu hỹ , ngô bất phục mộng kiến Chu Công!”).

Theo như quan niệm thời nhà Tây Chu, vua là “thiên tử” là con Trời.Vì đất đai rộng lớn (cái nhìn cổ thời) nên chia cho các chư hầu cai trị từng vùng, chư hầu phải thần phục nhà vua, vùng đất ở giữa và các chư hầu chung quanh xưng là Trung Hoa, thay Trời để cai trị. Đây là chế độ phong kiến do Chu Công thiết lập. Nhà Chu -Trung Hoa- tự thấy là mình văn minh hơn các dân tộc chung quanh; nên phải “giáo hóa” họ, thực chất để dùng vũ lực xâm chiếm và ép buộc các dân tộc này phải theo văn hóa của họ, nếu không theo sẽ tiêu diệt. Nạn Hoa hóa cho các dân tộc chung quanh ngoài Trung Hoa bắt đầu từ đây. Qua diễn tiến lịch sử, chúng ta đã thấy kết cuộc rất rõ ràng, khởi đầu Trung Hoa chỉ là vùng lưu vực sông Hoàng Hà, ngày nay Trung Quốc với diện tích lớn thứ ba trên thế giới, 9.6 triệu km2, gồm 55 chủng tộc.

Khổng Tử muốn làm như Chu Công thì đương nhiên ông phải cổ võ cho sự “giáo hóa” các dân tộc man di, là phải theo ta nếu không thì bị tiêu diệt, chủ trương “hưng Hoa diệt di” đã được thi hành nhiều lần qua lịch sử, một sự kỳ thị về chủng tộc rất tàn bạo! Nếu một người thường có quan niệm tự hào dân tộc mình là nhất (kiêu ngạo) thì cũng chỉ có tính cách cá nhân, sẽ ít gây thiệt hại. Tuy nhiên “thánh nhân” mà có chủ trương này và phổ biến hay truyền dạy tư tưởng này cho hậu thế  thì kinh khủng quá! “Thánh nhân” đã không nghĩ đến hậu quả của chiến tranh diệt chủng! Để rồi tư tưởng này trở thành tai họa truyền kiếp đến ngày nay cho nhân loại!

Khổng Tử kỳ thị man di?

Luận ngữ, “Hiến vấn đệ thập tứ”: “Tử viết: “Quản Trọng tướng Hoàn Công, bá chư hầu, nhất khuông thiên hạ, dân đáo vu kim thụ kỳ tứ. Vi Quản Trọng, ngô kỳ phi phát tả nhậm hĩ...” (Quản Trọng làm tướng quốc cho (Tề) Hoàn Công, nước Tề làm bá chủ chư hầu, làm thiên hạ vào một khuông phép. Không có Quản Trọng thì chúng ta đã phải búi tóc và cài nút áo phía trái), các dân tộc thuộc Bách Việt có phong tục “phi phát, tả nhậm”, câu này Khổng Tử đề cao Quản Trọng là ông này đã “nhất khuông thiên hạ”, nhờ có Quản Trọng dẹp yên dân man di nên Khổng Tử đã không phải theo tục lệ của Man Di. Câu này nói lên quan niệm của Khổng Tử  về man di với sự khinh thường, quan niệm này đã trở thành truyền kiếp.

Chúng ta thử tìm hiểu xem Khổng Tử đã làm gì liên quan đến vấn đề này qua Sử Ký (KTTG):
Tề Cảnh Công bèn sai sứ giả mời vua Lỗ lại họp ở Giáp Cốc. Lỗ Định công sắp sửa lên xe đến họp thân mật. Khổng Tử bấy giờ quyền giữ chức tướng quốc... Bèn mang theo tả tư mã và hữu tư mã, họp mặt với Tề Cảnh công ở Giáp Cốc... Ở đấy dựng lên một cái đàn có ba bậc tam cấp bằng đất và hai người gặp nhau theo nghi lễ... Và ngay đó, một người cầm cờ lông thú và lông chim mang lông chim sáo, giáo, kích, kiếm và khiên bước ra trong tiếng trống và tiếng hò la và bước lên đài. Khổng Tử rảo bước tiến ra, bước lên các bậc tam cấp, nhưng không qua bậc trên cùng, giơ ống tay áo lên nói:
- Vua hai nước chúng ta hội họp nhau than mật, chơi thứ nhạc Di, Địch làm gì? Xin ra lệnh cho quan đương sự để họ đuổi những người kia đi.

Vì thế Trung Hoa luôn có ý định “áp đặt” văn minh của họ đến cho các dân tộc chung quanh bằng võ lực. Đến ngày nay, ngoại trừ dân Lạc Việt, toàn thể Bách Việt đã bị Hoa hóa hay Hán hóa. Man ở phía nam, Di ở phía đông, Địch ở phía bắc, Nhung ở phía tây cũng đã bị Hán hóa.

4-Văn hóa kiêu ngạo và bành trướng

Từ thời Tây Chu, ý niệm vua là “thiên tử”, là con Trời đã có. Quan niệm về “thiên mệnh” của Khổng Tử lại được các Nho gia cổ võ, do đó vai trò của thiên tử càng tỏ rõ khi hoàng đế nhà Hán lên ngôi và trọng dụng Nho học cho mục đích chính trị. Quyền lợi của hai bên đều được nâng cao, uy quyền của hoàng đế được tung hô, Nho gia có được bổng lộc, và dân chúng thêm ách nặng.

Óc kiêu ngạo và tự tôn

Để nâng cao uy thế cũng như ảnh hưởng, Nho gia đã đề cao sự góp phần cho nền văn hóa Trung Hoa kiểu mẫu của họ mà “lũ man di” phải noi theo! Hoàng đế hay Thiên tử được tôn là con Trời, thay Trời “giáo hóa” mọi dân tộc. Đây là một sự tự tôn của một thể chế quân chủ toàn trị, muốn các dân tộc chung quanh phải hội nhập với mình. So với các dân tộc chung quanh, gồm những bộ tộc du mục phía bắc, các dân tộc nông nghiệp phía nam, chế độ quân chủ của Trung Hoa đã có qui củ hơn. Tuy nhiên tự cho là mình văn minh hơn các dân tộc khác, rồi vênh váo lên mặt giáo huấn họ thì cả là một sự kiêu ngạo quá đáng. Hậu Hán thư của Phạm Việp đã sỉ vả dân Giao Chỉ: “Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo”.

Phong hóa của mỗi dân tộc mỗi khác, nhưng các Nho gia đã theo tư tưởng của Khổng Tử là khinh thường các văn hóa khác và tìm cách áp đặt. Gốc du mục là dùng vũ lực để đánh chiếm, những gì dùng được thì cướp, còn lại là thiêu hủy. Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ đã làm như vậy từ Á sang Âu. Gốc gác du mục còn lưu lại đến ngày nay tại Trung Hoa qua cách ẩm thực (thịt chiên xào được dùng nhiều hơn từ phía bắc Trường Giang, thời cổ dùng thịt và mỡ thú vật, so với rau luộc hấp phổ thông hơn ở phía nam). Thời Khổng Tử vùng trung nguyên chưa biết dùng thực phẩm chính là gạo mà dùng hột kê. Gạo là sản phẩm của văn minh lúa nước Bách Việt nói chung, Lạc Việt nói riêng. Nhà Tần xâm chiếm vùng này năm 221 TCN (ngoại trừ Lạc Việt), thế mà thời cuối thời Tiền Hán, sử sách Trung Hoa lại nói là thái thú Hán: “(Nhâm) Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ” (ĐVSKTT). Đây là trò kiêu ngạo và tự tôn một cách gian trá của đám Nho gia viết sử. Tuy nhiên, các thế hệ kế tiếp tại Trung Hoa lại tin, rồi nghĩ họ là cái nôi của nền văn minh nhân loại, nên đã phải khai hóa lũ Nam Man, cũng như các dân tộc khác. Thế là niềm tự hào về dân tộc được ve vuốt và tư tưởng “đại Hán” được truyền bá dễ dàng đến ngày nay, mặc dù đây là sự kiêu ngạo, tự tôn một cách gian trá và lố bịch (ngụy tạo trong Olympic 2008, ăn cắp hình ảnh trong phim “Top Gun”). Việt Nam đã bao lần (bị xâm lăng rồi phải triều cống), cũng như đang khốn khổ (bị uy hiếp) vì cái trò kiêu ngạo và tự tôn kệch cỡm này.

Chủ nghĩa bành trướng

Từ cổ thời các dân tộc có những nền văn hóa khác nhau, nếu muốn các dân tộc này theo mình, thì cách nhanh nhất là dùng võ lực để đánh chiếm (tư tưởng du mục?), sau đó đặt ách cai trị (quan niệm của Nho gia?) để bắt các dân tộc này phải theo, đây là chủ nghĩa bành trướng của Trung Hoa, cách thức này hiện tại vẫn còn đang được áp dụng. Điển hình là vùng Tân Cương, Tây Tạng trong thế kỷ 20. Cổ thời, từ một khoảng đất tại lưu vực sông Hoàng Hà, ngày nay Trung Hoa đã có diện tích lớn thứ  ba trên thế giới. Đất đã là mục tiêu của tư tưởng “đại Hán”, ngày nay lại thêm mục tiêu về biển, một mối đe doạ cho các nước quanh Trung Hoa! Tất cả chỉ là sự canh tân của “tư tưởng Đại Hán” cho hợp với tình thế hiện tại và tương lai!   

5-Văn hoá chống hòa bình?

Qua kinh nghiệm lịch sử của nhân loại, những gì bất công dễ đưa đến chống đối hoặc tranh chấp. Trong một xã hội mà một giai cấp bị đàn áp và bóc lột thì sẽ có những sự vùng dậy; để con người đòi quyền được sống, nội chiến có thể xảy ra. Tới một bình diện lớn hơn là dân tộc, những sự đối xử bất bình đẳng sẽ đưa đến chiến tranh giữa các dân tộc.

Nhà Tần chủ trương chiến tranh xâm lăng, có tính cách du mục là cướp, nếu dùng được thì giữ, không thì thiêu hủy. Khi đã chiếm được thì áp dụng chủ thuyết của Pháp gia trong việc cai trị tàn bạo nên suy tàn rất nhanh (15 năm). Nhà Tây Hán với chủ trương chiến tranh xâm lăng, ngụy trang dưới chiêu bài “giáo hóa”, bề mặt là “nhân trị”, nhưng bên trong là “pháp trị” gay gắt , bàn tay sắt bọc nhung, đánh chiếm rồi cai trị và bóc lột thật là phi nhân bản. Phương pháp này đã được các Nho gia góp ý cho những hoàng đế Trung Hoa đầy tham vọng qua các đời; với mục đích được chia phần lợi lộc.  Đây là một trò giả hình về đạo đức để đàn áp các dân tộc khác.

a-Kỳ thị đẳng cấp gây nội loạn?

Như đã được trình bày trong phần trước, Nho Giáo đã tạo nên một sự kỳ thị về đẳng cấp ngay trong xã hội Trung Hoa, đám cai trị gồm vua chúa, kế đó là đám “kẻ sĩ” Nho gia làm quan, sau đó là đám dân bị trị gồm đa số quần chúng. Thời Hán, Nho giáo trở thành quốc giáo, thi cử để tuyển chọn người ra làm quan đặt trên căn bản Nho học, điều hành việc cai trị do các Nho gia đảm trách, ngay cả hoàng đế cũng được huấn luyện từ tư tưởng Nho học. Hậu quả của sự phản hòa bình, dù trực tiếp hay gian tiếp, gây ra bởi Nho giáo như thế nào?

Để kiểm chứng, chúng ta có thể nhìn sơ qua lịch sử Trung Hoa kể từ thời nhà Hán, hầu hết những cuộc nổi dậy đều do giai cấp bị trị, họ đã bị phỉnh gạt bởi cái “đạo” của đám Nho gia với chữ “nhân” mờ ảo (“nhân” với ai, với mọi người hay chỉ trong gia tộc và thân thuộc hay một đẳng cấp nào đó?)! Khởi đầu thì dân chúng theo, vì mong muốn có sự bình đẳng của con người và được no đủ. Khởi nghĩa thành công, đám Nho gia vẫn được dùng làm quan lại, vẫn tiếp tục bóc lột, rồi lại khởi nghĩa. Vòng luẩn quẩn này có tính cách truyền kiếp. Không có tư tưởng nào được nêu ra để thay đổi hẳn tư tưởng Nho giáo, thấy sai rồi sửa sai, lại thấy sai! Chu Hy rồi Vương Dương Minh có cố gắng để chỉnh đốn, nhưng cũng vẫn chỉ là não trạng của Nho gia, đâu lại hoàn đấy! Không một ai có được tư tưởng bình đẳng của Mặc gia, có lẽ cũng chỉ vì sự tự tôn và vị kỷ của đám Nho gia đầy kiêu ngạo, cho quan niệm của mình là nhất!

Cuối thời nhà Thanh, Hồng Tú Toàn khởi nghĩa dựng nên Thái Bình Thiên Quốc, ông này bị ảnh hưởng phần nào bởi tinh thần của Thiên Chúa giáo (thi hỏng nhiều lần, sau đó học về Kinh Thánh, xưng là em của Jesus!?), đề cao sự bình đẳng, dân chúng vùng Quảng Tây rồi các tỉnh khác theo, thắng lợi liên tiếp, đã từng mang quân tới Thiên Tân (gần Bắc Kinh), lập quốc đóng đô ở Nam Kinh. Tuy nhiên đầu óc của ông này vẫn mang nặng tính cách của Nho gia, đến khi làm vua lại theo đường lối cũ rồi bị tiêu diệt. Đây là mộc cuộc nổi loạn có số thương vong nhiều nhất trong lịch sử Trung  Hoa và có lẽ nhất trên thế giới từ trước đến nay  (trực tiếp khoảng 25 triệu, gián tiếp có thể lên tới 100 triệu, theo như  tài liệu trong sách "Sử Trung Quốc" của học giả Nguyễn Hiến Lê).

Bất bình đẳng dễ đưa đến nội loạn; bất kể nơi nào trên thế giới, Hoa Kỳ cũng đã xảy ra nội chiến, tuy nhiên một nền văn hóa truyền kiếp; có sự bất bình đẳng truyền kiếp; thì nội chiến sẽ xảy ra hết đời này đến đời khác. Nho Giáo từ Khổng Tử trở đi đã tạo nên sự kỳ thị về đẳng cấp, từ đó sẽ có nội loạn và chiến tranh cho đến khi con người có sự bình đẳng. Mới đây (2009), người Hồi ở Tân Cương đã gây phản ứng nhưng bị dẹp yên, tuy nhiên còn bất bình đẳng thì sẽ còn Tây Tạng, còn dân tộc Tráng, còn Nội Mông, còn v.v... và v.v... 

b-Kỳ thị chủng tộc gây chiến tranh?

Chiến tranh là hiện tượng lịch sử của nhân loại. Chiến tranh là dùng vũ lực để giải quyết sự xung đột. Giữa các dân tộc trên thế giới thì sự tham lam, kiêu ngạo, kỳ thị, lừa dối thường là do tính vị kỷ của con người, sự vị kỷ dễ đưa đến xung đột vì phía nào cũng muốn điều lợi cho phần mình, phe phái của mình.      

Tính du mục hiếu chiến

Văn hóa du mục có tính cách hiếu chiến, trọng võ hơn văn. Từ khi chiếm được vùng lưu vực sông Hoàng hà, một bộ tộc mạnh (truyền thuyết về nhà Hạ) chuyển qua  phương cách định cư và thôn tính các bộ tộc chung quanh. Sau đó xã hội gồm có nhiều bộ tộc, một thể chế chính trị được thành lập; đó là nhà Thương, rồi đến chế độ phong kiến nhà Chu, văn hóa được thành hình, tuy nhiên vẫn còn nặng tính cách hiếu chiến của dân du mục. Chiến tranh xảy ra liên miên qua các thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Trung Hoa thống nhất, Tần vương Doanh Chính làm hoàng đế, tuy nhiên vì muốn bành trướng nên chiến tranh vẫn tiếp tục (Mông Điềm đánh Hung Nô phía bắc, Đồ Thư chinh phục Bách Việt phía nam). Nhà Tần suy thoái, Trung Hoa lại lâm vào cảnh nội chiến giữa các thế lực. Hai thế lực còn lại là Lưu Bang và Hạng Vũ tranh nhau, chiến tranh vẫn tiếp diễn. Lưu Bang thắng dựng nên nhà Hán. Tuy nhiên vì muốn mở rộng về phía bắc, Trung Hoa luôn có chiến tranh với Hung Nô. Nếu không có chiến tranh với các dân tộc chung quanh, Trung Hoa lại chia phe ra đánh lẫn nhau, lập thành nhiều nước như thời Tam Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc, Nam Bắc Triều, Ngũ Đại thập quốc. Tuy nhiên khi nàoTrung Hoa thống nhất thì tai họa chiến tranh lại xảy ra cho các lân bang.

Tính cách hiếu chiến của du mục tàn bạo nhưng nhất thời. Sự hiếu chiến cộng thêm với sự cai trị để bóc lột và chủ trương đồng hóa, ngụy trang dưới chữ  “nhân” để “khai hóa”; thì hậu quả cho các dân tộc láng giềng sẽ kinh khủng hơn rất nhiều! Đây là một chính sách tàn độc (tàn bạo và thâm độc) có tính cách lâu dài và đưa đến sự diệt chủng một cách êm thắm. Việt Nam đã là nạn nhân của chính sách này qua nhiều lần bị Bắc thuộc, cũng như vùng Bách Việt đã bị Hán hóa hầu hết, ngoại trừ Lạc Việt.

Tự kiêu về văn hóa và chủng tộc: tư tưởng Hán hóa

Chủ trương mang “văn hóa” đi truyền bá kèm theo vũ lực vẫn tiếp tục, qua hàng ngàn năm cũng vẫn chỉ là bành trướng: tư tưởng Hán hóa. Như đã trình bày trong phần trước, Nho giáo đã di truyền lại cái tư tưởng tự kiêu tự đại, cảm thấy mình là nước lớn, nước “có văn hóa” nên luôn tự kiêu. Hoàng đế luôn luôn cho mình là chủ của các lân bang, “ai cũng là thần dân”, không đánh chiếm được thì tạm “tha làm phúc”, bắt triều cống rồi chờ cơ hội khác. Chỉ khi nào Trung Hoa có nội loạn, hoặc chia năm xẻ bẩy, hay bị các bộ tộc du mục phía bắc (Kim, Mông, Mãn) uy hiếp hay chiếm đóng; thì các nước phía nam và phía tây mới được tạm thời yên ổn!

Trung Quốc có phải là cái họa của lân bang?

(còn tiếp)


Trần Việt Bắc
danlambaovn.blogspot.com


Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo